trongdong
text logo

HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

Tác giả bài viết: Ths. Bùi Thị Thu Ngân, Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển.

Chủ nhật - 02/11/2025 08:21
Sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0, xu thế toàn cầu hóa cùng những biến động khó lường của thị trường đã đặt ra những yêu cầu mới đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ở Việt Nam hiện nay. Thông qua việc phân tích bộ dữ liệu khảo sát đối với 300 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại 09 tỉnh/thành phố, đại diện ba miền trong cả nước, bài viết góp phần làm rõ đặc điểm hoạt động, tình hình tài chính, định hướng phát triển, cũng như các yếu tố thuận lợi và thách thức đang tác động đến sự phát triển của nhóm doanh nghiệp này. Kết quả cho thấy, các DNVVN có cơ cấu ngành nghề khá đa dạng. Tuy nhiên, đa số có quy mô vốn nhỏ, khả năng huy động vốn còn hạn chế, áp lực trả nợ cao, trong khi đầu tư cho nghiên cứu - phát triển còn khiêm tốn. Cùng với đó, mặc dù có những thuận lợi nội sinh như sự linh hoạt, kinh nghiệm quản lý và nguồn nhân lực trẻ, song DNVVN vẫn gặp không ít khó khăn về vốn, thị trường và công nghệ. Trước bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen, DNVVN Việt Nam buộc phải lưa chọn: hoặc chủ động đổi mới, tận dụng thời cơ để phát triển, hoặc sẽ đối diện nguy cơ bị đào thải khỏi thị trường nếu chậm thích ứng.
Bài viết là sản phẩm nghiên cứu khoa học của đề tài “Chính sách và giải pháp phát triển nhân lực khoa học công nghệ trẻ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam giai đoạn 2021-2030” (Mã số ĐTĐLXH.07/22), Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển chủ trì

1. Đặt vấn đề
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tác động sâu sắc đến cấu trúc và phương thức hoạt động của các doanh nghiệp, đặt ra yêu cầu ngày càng cao về năng lực đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, nhằm đảm bảo duy trì sự phát triển bền vững. Đối với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, những biến đổi này không chỉ tạo ra cơ hội nâng cao năng suất, mở rộng thị trường, mà còn bộc lộ những hạn chế về nguồn tài chính, năng lực quản trị và khả năng tiếp cận công nghệ.

Với tỷ lệ gần 98% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2024), nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và duy trì sự ổn định xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phân hóa rõ rệt giữa các doanh nghiệp về quy mô, ngành nghề, năng lực sản xuất kinh doanh cũng như mức độ thích ứng với môi trường thị trường đang biến động nhanh chóng. Trong khi một bộ phận doanh nghiệp có khả năng tận dụng các cơ hội từ chính sách hỗ trợ và xu hướng phát triển mới, thì nhiều đơn vị khác vẫn gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động bền vững và nâng cao sức cạnh tranh.

Xuất phát từ thực tế trên, bài viết này trình bày kết quả khảo sát 300 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, tập trung phân tích các đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh, định hướng phát triển, cũng như làm rõ những thuận lợi và khó khăn mà các doanh nghiệp đang đối mặt. Trên cơ sở phân tích dữ liệu thực nghiệm, bài viết sẽ góp phần cung cấp rõ nét hơn bức tranh về thực trạng hoạt động của nhóm doanh nghiệp này, từ đó làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường năng lực cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay.

1. Thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.1. Ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, với những đặc điểm nổi bật về lĩnh vực hoạt động, cơ cấu tổ chức và khả năng cạnh tranh, phản ánh những thách thức cũng như cơ hội trong quá trình phát triển.

Kết quả khảo sát mẫu cho thấy, ngành nghề hoạt động chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay khá đa dạng, bao quát nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường và tiêu dùng xã hội. Theo đó, tỷ lệ khá cao doanh nghiệp vừa và nhỏ lựa chọn khai khác các ngành công nghiệp hay thương mại mang tính trọng điểm, có nhu cầu thị trường ổn định, được nhà nước ưu tiên phát triển. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ như vận tải, giáo dục và KH&CN cũng đang thu hút lượng khá lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia.

Một số ngành dịch vụ khác có sự biến động thị trường lớn như Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; Y tế; Bất động sản; Nghệ thuật; hay Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ... thường gặp khó khăn hơn trong việc thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển nên chiếm tỷ lệ thấp hơn. Mặt khác kết quả khảo sát cũng phản ánh, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ có xu hướng tập trung nhiều hơn vào hoạt động kinh doanh, thương mại thay vì sản xuất, đồng thời, một số ít ngành như chế biến chế tạo và xây dựng có khả năng kết hợp cả hai hoạt động này cao hơn.

Kết quả cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia hoạt động chính tại mỗi ngành nghề dao động trong khoảng từ 1,7% đến 16%. Trong đó, bốn ngành thu hút trên 10% doanh nghiệp gồm Công nghiệp chế biến chế tạo (16,0%), Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy (15,0%), Hoạt động dịch vụ khác (12,3%) và Các ngành nghề xây dựng (12,0%). Nhóm ngành có tỷ lệ trung bình (từ 5%-10%) là Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (7,7%), Giáo dục và đào tạo (7,7%); Vận tải kho bãi (6,7%); Dịch vụ lưu trú và ăn uống (6,3%); Thông tin và truyền thông (6,3%) và Hoạt động chuyên môn KH&CN (5,3%). Các ngành còn lại như Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội; Cung cấp nước, quản lý, xử lý rác thải, nước thải; Bất động sản; Nghệ thuật và Hành chính - dịch vụ hỗ trợ chiếm tỷ lệ khá thấp (dưới 5% với mỗi ngành nghề).

Trong các ngành nghề được đưa ra, có 13/18 ngành nghề chính được các doanh nghiệp chủ yếu khai thác ở khía cạnh kinh doanh, thương mại. Trong đó, chiếm tỷ lệ cao nhất là Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác (13,3%). Điều này cho thấy xu hướng ưu tiên khai thác hoạt động kinh doanh, phân phối hàng hóa trong các doanh nghiệp hiện nay.

Cùng với đó, hai ngành nghề là Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và Thông tin và truyền thông có xu hướng được nhiều doanh nghiệp khai thác tập trung ở khía cạnh sản xuất hơn, mặc dù với tỷ lệ không đáng kể, lần lượt là 5,0% và 3,7%. Đáng chú ý, ngành Công nghiệp chế biến chế tạo và Các ngành nghề xây dựng được khá nhiều doanh nghiệp lựa chọn khai thác kết hợp ở cả mặt sản xuất lẫn kinh doanh, với số liệu lần lượt là 8,0% và 5,0%.
Về các ngành nghề phụ, kết quả khảo sát cho thấy Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác tiếp tục là nhóm ngành được đa số doanh nghiệp lựa chọn khai thác ở vị trí lĩnh vực phụ (15,3% lựa chọn). Tuy nhiên một điểm khác biệt là có 9% đến 11% doanh nghiệp có xu hướng lựa chọn Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (11,0% lựa chọn) cũng như Dịch vụ lưu trú và ăn uống (9,7% lựa chọn) làm lĩnh vực phụ của doanh nghiệp, cao hơn so với tỷ lệ của các ngành này với vị trí ngành nghề chính. Các ngành nghề phụ khác tiếp tục nhận được sự lựa chọn dao động từ 1% đến dưới 9% từ các doanh nghiệp trong mẫu khảo sát.

Mặc dù chiếm tỷ lệ không cao và mức chênh lệch không đáng kể, nhưng kết quả nghiên cứu đã cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay đang tìm kiếm những cơ hội khai thác mở rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó, tập trung nhiều đến các ngành nghề thuộc lĩnh vực dịch vụ (Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy) và hỗ trợ (Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ), với hoạt động chủ yếu là kinh doanh (chiếm tỷ lệ lần lượt là 14,7% và 9,7%).

Xét tương quan với biến khu vực và quy mô doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp tại miền Trung và doanh nghiệp nhỏ có xu hướng tập trung vào hoạt động Sản xuất, cung ứng sản phẩm thị trường và hoạt động Đa lĩnh vực, không cố định cao hơn so với các doanh nghiệp còn lại. Trong khi đó, các doanh nghiệp tại khu vực miền Nam và doanh nghiệp siêu nhỏ lại có xu hướng khai thác khía cạnh Dịch vụ thương mại, buôn bán cao hơn; đồng thời doanh nghiệp có quy mô vừa có tỷ lệ kết hợp cả Sản xuất, cung ứng sản phẩm thị trường và Dịch vụ thương mại, buôn bán cao hơn so với những doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, đây chỉ là sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong mẫu khảo sát.

1.2. Tình hình tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Tình hình tài chính là một trong những yếu tố phản ánh rõ nhất năng lực hoạt động và mức độ ổn định của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu như nguồn vốn, doanh thu, lợi nhuận, mức nộp thuế có thể đánh giá được khả năng tài chính cũng như khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp.

- Về nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các doanh nghiệp tham gia khảo sát, chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm doanh nghiệp có mức vốn điều lệ từ 3 tỷ đến 10 tỷ đồng (25,3%); kế đó là nhóm doanh nghiệp có vốn điều lệ Trên 1 tỷ đến 3 tỷ đồng (19,0%); trên 500 triệu đến 1 tỷ đồng (17,4%); Trên 10 tỷ đến 30 tỷ đồng (13,0%). Các doanh nghiệp còn lại có vốn điều lệ trong khoảng Trên 100 tỷ; từ 0 đến 500 triệu và Trên 30 tỷ đến 100 tỷ chiếm tỷ lệ lần lượt là 9,5%; 7,9% và 7,9%.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, nhu cầu mở rộng quy mô và tăng cường năng lực tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trở nên phổ biến khi đa số doanh nghiệp (96,6%) từng thực hiện tăng vốn điều lệ kể từ khi thành lập đến nay. Đáng chú ý, gần một nửa số doanh nghiệp (45,4%) từng điều chỉnh tăng vốn trong vòng 1 năm trở lại đây cho thấy tính cấp thiết trong việc đáp ứng nhu cầu vốn và tận dụng cơ hội kinh doanh trước sự biến động của thị trường, cũng như những yêu cầu mới mà xã hội đặt ra.

Bên cạnh vốn điều lệ, khả năng huy động và vay vốn cũng là yếu tố quan trọng phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp. Trong tổng số 300 DNVVN tham gia khảo sát, có 40,8% đang sử dụng vốn vay để hoạt động, với sự khác biệt đáng kể giữa các vùng miền: miền Trung có tỷ lệ vay vốn cao nhất (57,4%), tiếp đến là miền Bắc (42,5%) và thấp nhất là miền Nam (31,9%). Về quy mô khoản vay, phần lớn doanh nghiệp vay ở mức 1–5 tỷ đồng (42,0%), tiếp theo là dưới 1 tỷ đồng (21,7%), trong khi các mức vay cao hơn từ 5–10 tỷ đồng hoặc trên 50 tỷ đồng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Đáng chú ý, quy mô doanh nghiệp có mối tương quan tỷ lệ thuận với giá trị khoản vay, phản ánh nhu cầu và khả năng tiếp cận vốn tốt hơn của các doanh nghiệp có quy mô lớn. Tuy nhiên, áp lực tài chính vẫn là thách thức chung đặt ra khi có tới 71,8% doanh nghiệp cho biết đang gặp khó khăn trong việc trả nợ; trong đó, nhóm doanh nghiệp nhỏ chịu áp lực lớn nhất (76,9%), tiếp đến là doanh nghiệp siêu nhỏ (71,4%) và doanh nghiệp vừa (68,0%).

Về doanh thu của doanh nghiệp vừa và nhỏ, dữ liệu từ một số báo cáo năm 2024 cho thấy, khu vực DNVVN đóng góp khoảng 20% doanh thu toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt thời gian qua DNVVN đã ngày càng mở rộng thị trường và chiếm lĩnh 25% kim ngạch xuất khẩu hàng năm.

Theo số liệu mẫu khảo sát, trong giai đoạn 2021-2023, doanh thu của các doanh nghiệp đã trải qua nhiều biến động đáng kể. So với ba nhóm quy mô, nhóm doanh nghiệp vừa luôn có doanh thu trung bình cao nhất mỗi năm, tiếp theo là doanh nghiệp nhỏ và cuối cùng là doanh nghiệp siêu nhỏ. Về xu hướng biến động, doanh thu trung bình của toàn bộ mẫu khảo sát và nhóm doanh nghiệp nhỏ đều ghi nhận sự gia tăng từ năm 2021 đến 2022, sau đó giảm nhẹ trong giai đoạn 2022-2023.

Ngược lại, doanh nghiệp siêu nhỏ cho thấy xu hướng giảm doanh thu trong giai đoạn 2021-2022, nhưng lại có sự phục hồi vào năm 2023. Đặc biệt, doanh nghiệp vừa ghi nhận doanh thu tăng liên tục qua các năm. Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng độ lệch chuẩn ở các nhóm doanh nghiệp lớn hơn có xu hướng tăng cao, phản ánh sự phân tán lớn giữa doanh thu của các doanh nghiệp trong cùng một nhóm.

Về hoạt động nộp thuế của doanh nghiệp vừa và nhỏ, bên cạnh việc tìm hiểu sự thay đổi trong vốn điều lệ, hoạt động vay vốn, doanh thu, thì chỉ báo nộp thuế của doanh nghiệp cũng là một thước đo quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp tham gia khảo sát. Theo đó, khi số tiền thuế tăng đều đặn, điều này thường phản ánh sự phát triển ổn định, tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận. Ngược lại, nếu doanh nghiệp nộp thuế ít hoặc có xu hướng giảm, có thể đây là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, lợi nhuận suy giảm hoặc gặp vấn đề khác về tài chính.

Kết quả khảo sát cho thấy, số tiền nộp thuế trung bình của các doanh nghiệp tham gia khảo sát có xu hướng tăng lên theo thời gian, tuy nhiên mức độ tăng giảm giữa các nhóm quy mô doanh nghiệp có sự khác biệt rõ rệt. Nhìn chung, doanh nghiệp vừa luôn có mức nộp thuế trung bình cao nhất trong các năm, phản ánh quy mô lớn và hoạt động kinh doanh mạnh mẽ của họ. Xếp sau là doanh nghiệp nhỏ, trong khi doanh nghiệp siêu nhỏ có mức nộp thuế trung bình thấp nhất.

Tuy nhiên, khi phân tích xu hướng biến động giữa các năm, nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ lại cho thấy sự gia tăng ổn định về số tiền nộp thuế trung bình. Ngược lại, nhóm doanh nghiệp nhỏ trải qua biến động phức tạp hơn, với mức nộp thuế trung bình giảm trong giai đoạn 2021-2022 nhưng lại phục hồi và tăng trưởng trở lại vào năm 2023. Đặc biệt, nhóm doanh nghiệp vừa, mặc dù có số tiền nộp thuế trung bình cao nhất, lại ghi nhận sự giảm sút đáng kể trong giai đoạn 2022-2023. Cùng với đó, độ lệch chuẩn lớn cũng cho thấy trong mỗi nhóm doanh nghiệp, dù cùng quy mô, vẫn tồn tại sự khác biệt rất lớn về khả năng tài chính và mức độ đóng góp vào ngân sách nhà nước.

Tìm hiểu cụ thể về mức nộp thuế của các doanh nghiệp trong giai đoạn nói trên, đa số doanh nghiệp có mức nộp thuế chủ yếu từ 0 đến dưới 100 triệu với tỷ lệ ngày càng tăng từ 36,0% năm 2021 lên 40,8% năm 2023 (tăng 4,8%). Cùng với đó, tỷ lệ doanh nghiệp nộp mức thuế bằng 0 có xu hướng giảm khá nhanh từ 16,5% năm 2021-2023, giảm 8,7%. Có cùng xu hướng giảm là nhóm nộp thuế Trên 500 triệu đến 1 tỷ (giảm 0,6%), tuy nhiên nhóm này đang có dấu hiệu tăng trở lại trong giai đọn 2022-2023. Các mức nộp thuế khác đều có sự biến động nhẹ trong 2 giai đoạn 2021-2022 và 2022-2023, song nhìn chung vẫn có mức tăng từ 0,4% đến 1,6%.

Về dự định phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong 20 tiêu chí được đưa ra tại bảng 1.1 về dự định phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới, có đến 62,7% doanh nghiệp lựa chọn phương án mở rộng lĩnh vực hoạt động chính; 40,1% tập trung vào việc mở rộng thị trường nội địa.

Cùng với đó, nhóm dự định nhận được sự lựa chọn của 30% - 40% doanh nghiệp gồm: Phát triển hệ thống Marketing, PR, Truyền thông (33,8%); Đầu tư chuyển đổi số (33,4%); Đầu tư máy móc, thiết bị công nghệ (32,8%); Mở rộng hợp tác các doanh nghiệp vừa và nhỏ (32,8%).

Ngoài ra, các dự định như Đầu tư nhân lực chất lượng cao (29,1%); Tham gia nhiều hơn hoạt động xã hội, nhân đạo (27,4%); Mở rộng liên kết, hợp tác các doanh nghiệp lớn (26,4%); phát triển thành doanh nghiệp lớn (24,7%); Mở rộng hoạt động lĩnh vực phụ (24,1%); Mở lĩnh vực hoạt động mới (23,7%); Mở rộng thị trường quốc tế (22,7%); Mở rộng đầu tư các tỉnh/thành (20,4%); Đầu tư nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ (18,1%) và Mở rộng mạng lưới cung ứng nguyên liệu (14,7%) có tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn đạt từ 10% - 20%.

 
Bảng 1.1. Dự định mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Đơn vị: % doanh nghiệp
STT Dự định Sản xuất Kinh doanh Không chọn
1 Mở rộng lĩnh vực hoạt động chính 32,6 43,6 37,3
2 Mở rộng hoạt động lĩnh vực phụ 6,4 19,4 75,9
3 Mở lĩnh vực hoạt động mới 9,1 17,4 76,3
4 Phát triển thành doanh nghiệp lớn 11,1 17,4 75,3
5 Đầu tư máy móc, thiết bị công nghệ 23,4 13,4 67,2
6 Đầu tư nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ 8,4 11,7 81,9
7 Đầu tư nhân lực chất lượng cao 14,4 19,4 70,9
8 Đầu tư chuyển đổi số 15,1 24,1 66,6
9 Mở rộng mạng lưới cung ứng nguyên liệu 8,0 9,7 85,3
10 Mở rộng thị trường quốc tế 10,1 16,4 77,3
11 Mở rộng thị trường nội địa 15,7 29,4 59,9
12 Mở rộng hợp tác các doanh nghiệp vừa và nhỏ 11,4 26,8 67,2
13 Mở rộng liên kết, hợp tác các doanh nghiệp lớn 9,1 21,1 73,6
14 Mở rộng đầu tư nước ngoài 2,7 6,0 92,3
15 Mở rộng đầu tư các tỉnh/thành 6,4 15,7 79,6
16 Phát triển hệ thống Marketing, PR, Truyền thông 12,0 26,7 66,2
17 Tham gia nhiều hơn hoạt động xã hội, nhân đạo 12,4 19,8 72,6
18 Thu hẹp, thu gọn loại hình sản xuất, kinh doanh 1,3 2,7 96,0
19 Khác 1,0 0,3 98,0
20 Chưa xác định dự định, kế hoạch 9,0 13,4 84,6
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát Đề tài ĐTĐLXH.07/22.

Một số dự định khác như Mở rộng đầu tư nước ngoài hay thu hẹp, thu gọn các loại hình sản xuất, kinh doanh và các dự định khác chỉ nhận được lựa chọn của dưới 10% doanh nghiệp tham gia khảo sát. Ngoài ra có 15,4% doanh nghiệp chưa xác định dự định, kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh trong thời gian tới.

Như vậy, có thế thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có định hướng phát triển đa dạng, phản ánh xu thế đổi mới và thích ứng với bối cảnh hiện đại. Việc tập trung vào các yếu tố như truyền thông, chuyển đổi số, đầu tư máy móc thiết bị hay mở rộng hợp tác với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một xu hướng phù hợp với xã hội hiện đại ngày nay, khi KH&CN không ngừng phát triển. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ doanh nghiệp dự định đầu tư vào nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ còn khá khiêm tốn. Điều này cho thấy vẫn còn khoảng cách giữa định hướng chính sách và thực tiễn triển khai tại doanh nghiệp.

2. Thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay

2.1. Thuận lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Tìm hiểu về thuận lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất kinh doanh hiện nay, số liệu được đưa ra trong biểu đồ 3.6 cho thấy phần lớn thuận lợi của các doanh nghiệp trong mẫu khảo sát thường đến từ nguồn lực nội bộ. Kết quả điều tra phản ánh yếu tố lãnh đạo và nhân lực được coi là lợi thế hàng đầu, chiếm 57,3%. Ngoài ra, 33,6% doanh nghiệp chọn các yếu tố thuận lợi khác, 26,7% dựa vào kinh nghiệm thành công trong quá khứ, và 21,1% cho rằng các mối quan hệ đóng vai trò quan trọng. Đồng thời, 16,8% doanh nghiệp nhấn mạnh rằng việc có chính sách đúng đắn là một yếu tố thuận lợi hiện có.

Ngược lại, các yếu tố như chính sách của Nhà nước, KH&CN hay chuẩn quốc tế lại ít được các doanh nghiệp đánh giá cao và coi là thuận lợi chính cho sự phát triển doanh nghiệp. Chỉ có 12,5% doanh nghiệp cho rằng chính sách Nhà nước mang lại thuận lợi, 10,8% nhận thấy KH&CN là yếu tố hỗ trợ, và chỉ 2,6% đánh giá cao việc đáp ứng tiêu chí chuẩn quốc tế.

Điều này cho thấy các yếu tố đòi hỏi kỹ thuật và trình độ cao như KH&CN, chính sách Nhà nước và chuẩn quốc tế vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp tận dụng một cách hiệu quả trong quá trình phát triển sản xuất – kinh doanh. Điều này có thể dễ hạn chế khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

 
Biểu đồ 1.1. Thuận lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đơn vị: % doanh nghiệp
1
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát Đề tài ĐTĐLXH.07/22.

Xét theo quy mô doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ có tỷ lệ tận dụng thuận lợi từ các yếu tố như Khoa học công nghệ (15,0%), Quan hệ (25,0%), Kinh nghiệm thành công (37,5%) và Chuẩn quốc tế (2,5%) cao hơn so với hai nhóm còn lại. Ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ lại nhấn mạnh hơn vào các yếu tố như Lãnh đạo nhân lực (64,3%) và Chính sách đúng đắn của doanh nghiệp (18,4%). Đối với doanh nghiệp vừa, họ thường lựa chọn những yếu tố thuận lợi khác, mang tính đa dạng hơn. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các nhóm này không đủ rõ ràng để đưa ra kết luận có ý nghĩa thống kê rộng rãi.
 
2.2. Khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Theo kết quả khảo sát bảng 1.2, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang phải đối diện với khá nhiều thách thức liên quan chủ yếu đến thị trường tiêu thụ (47,6%); vốn (37,0%); con người - nhân lực (22,8%); cơ chế chính sách (17,5%) và một số khó khăn khác (14,6%).

Ngoài ra, chiếm dưới 10% lựa chọn của doanh nghiệp là các khó khăn liên quan đến việc thiếu công nghệ (8,5%); thiếu nguyên liệu (6,9%); chất lượng sản phẩm (4,5%) và công tác quản ký kém (2,0%).

 
Bảng 1.2. Tương quan khó khăn của doanh nghiệp với quy mô doanh nghiệp
Đơn vị: % doanh nghiệp
STT Khó khăn Chung Miền
Bắc Trung Nam
1 Thiếu vốn 37,0 44,7 34,3 28,9
2 Cơ chế chính sách* 17,5 24,6 17,1 9,3
3 Thị trường tiêu thụ 47,6 48,2 62,9 41,2
4 Chất lượng sản phẩm 4,5 2,6 5,7 6,2
5 Con người* 22,8 30,7 22,9 13,4
6 Thiếu công nghệ 8,5 7,0 2,9 12,4
7 Thiếu nguyên liệu 6,9 4,4 2,9 11,3
8 Quản lý kém 2,0 0,0 5,7 3,1
9 Khác** 14,6 7,0 20,0 21,6
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát Đề tài ĐTĐLXH.07/22
 
Phân tích tương quan giữa khó khăn của các doanh nghiệp và khu vực hoạt động cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các doanh nghiệp thuộc ba miền. Cụ thể, các doanh nghiệp miền Bắc có xu hướng đối mặt nhiều hơn với các khó khăn về cơ chế chính sách (24,6%) và nhân lực (30,7%). Trong khi đó, doanh nghiệp miền Trung lại gặp nhiều thách thức ở các khía cạnh khác hơn so với hai khu vực còn lại. Do đó, khi xây dựng các giải pháp cần chú ý đến việc khắc phục những khó khăn phù hợp với đặc điểm của từng khu vực doanh nghiệp hoạt động.

3. Kết luận

Những số liệu phân tích về thực trạng hoạt của một số doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam đã góp phần làm rõ những đặc điểm cơ bản về ngành nghề hoạt động, năng lực tài chính cũng như định hướng phát triển của nhóm doanh nghiệp này trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Theo đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có sự đa dạng cao về lĩnh vực hoạt động, tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, thương mại và xây dựng, với xu hướng ưu tiên hoạt động kinh doanh.

Về năng lực tài chính, các doanh nghiệp thể hiện sự phân hóa rõ rệt theo quy mô. Đáng chú ý, tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện tăng vốn rất cao, phản ánh nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh cấp thiết, tuy nhiên áp lực trả nợ vẫn là gánh nặng chung của phần lớn doanh nghiệp hiện nay. Doanh thu và mức đóng góp ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2023 có xu hướng tăng trưởng tích cực, cho thấy tín hiệu phục hồi sau đại dịch, trong đó nhóm doanh nghiệp vừa duy trì mức tăng trưởng ổn định nhất.

Cùng với đó, mặc dù sở hữu nhiều lợi thế nội sinh, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam vẫn đang đối mặt với hàng loạt khó khăn mang tính hệ thống như thiếu vốn, năng lực quản trị yếu và thiếu đội ngũ chuyên môn cao, thiếu khả năng cạnh tranh về công nghệ và đổi mới sáng tạo, khó khăn trong mở rộng thị trường và xây dựng thương hiệu, những bất lợi trong cạnh tranh với doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI, hạn chế về hợp tác và kết nối mạng lưới và những rào cản thể chế và hành chính khác… Các khó khăn, rào cản trên không phải là vấn đề mới, song có xu hướng gia tăng độ phức tạp trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào thời kỳ chuyển đổi số mạnh mẽ, hội nhập CPTPP, EVFTA và các hiệp định thương mại thế hệ mới. Điều này không chỉ làm chậm lại tốc độ phát triển của doanh nghiệp, mà còn gây hạn chế trong việc tiếp cận nguồn lực, hội nhập quốc tế và nâng cao năng suất lao động. Sự tồn tại song song của thuận lợi và khó khăn, thách thức đặt doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vào những ngã rẽ quan trọng: hoặc nắm bắt cơ hội để bứt phá, hoặc chịu nguy cơ bị loại khỏi thị trường nếu không đổi mới, khắc phục trong thời gian tới.

Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2024, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
2. Kate Trần (2024), Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn "đói" vốn, Thời báo VTV, https://vtv.vn/kinh-te/doanh-nghiep-nho-va-vua-van-doi-von-20240725232829238.htm
3. Khánh Vy (2025), Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thống nhất cao nhận thức về vai trò đặc biệt quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa, VnEconomy,  https://vneconomy.vn/bo-ke-hoach-va-dau-tu-thong-nhat-cao-nhan-thuc-ve-vai-tro-dac-biet-quan-trong-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua.htm
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây